Giới thiệu xã Cảnh Dương (Phần 8) - Phong tục sinh hoạt Cảnh Dương
Phong tục sinh hoạt
Người Cảnh Dương tự hào về mảnh đất sông Loan, núi
Phượng:
"Sông Loan, núi Phượng hữu tình
Bảng vàng, ấn ngọc, phân minh chầu về"
(Vè Cảnh Dương)
Nhờ ông cha Cảnh Dương có định hướng đúng về làm ăn kinh
tế từ những ngày đầu lập làng, cùng với tinh thần lao động cần cù, năng động,
sáng tạo của dân làng từ nghề chài lưới, rồi mở mang thêm nghề chế biên hải
sản, đặc biệt là nghề chế biến nước mắm, mở rộng giao lưu buôn bán cùng nghề
hàng hải, đóng ghe thuyền, nên cuộc sông của người dân Cảnh Dương ngày càng
hưng thịnh, ít có những biên cố, thăng trầm lớn.
Biết coi trọng lao động nên lóp ngưòi nào ở Cảnh Dương
cũng làm việc rất cần cù, chăm chỉ. Đàn ông vốn chân thuyền, tay lưới, vào
lộng, ra khoi, đàn bà đòn gánh đè vai, thức khuya dậy sớm, buôn thúng bán mẹt,
cối xay chày đạp; thương gia vào thùng ra chảo, lên xe xuống ngựa, buôn ghe bán
mành, cần cù lam lũ. Tầng lớp nho học, trí thức trung thực, nhân đức, thức
thời, sớm trở thành tầng lớp học thức có công đức của làng. Đội ngũ thanh niên
trai tráng khỏe mạnh, năng động, hiếu học. Đó là những nét đặc trưng xuyên suốt
của con người Cảnh Dương, là nguồn động lực cho Cảnh Dương xây dựng làng quê
trù phú, có đời sống vật chất, văn hóa tinh thần phong phú, xứng danh là làng
quê văn vật.
Tuy làng quê Cảnh Dương không sản xuât nông nghiệp nhưng
luôn đầy đủ các loại lương thực, nông sản, ngũ cốc đáp ứng nhu cầu cho nhân
dân.
Bữa ăn uống thường ngày của người dân tương đối đạm bạc,
nhưng với bàn tay khéo chế biến của chị em phụ nữ nên vân bảo đảm về chất
lượng. Những ngày giô, chạp hoặc khi có dịp tiếp khách, với tâm lòng thành cùng
kỹ thuật chế biến các hải sản, bữa cô chạp có những món ăn ngon, bổ, quý, khách
một lần được thưởng thức thật khó quên.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, việc ăn độn sắn, khoai đã
trở nên quen thuộc trong mỗi gia đình, kể cả trong những gia đình khá giả, trừ
người già và trẻ em thì được phần ưu tiên.
Quần, áo mặc hằng ngày của ngưòi dân lao động thường được
sản xuât từ các loại vải mòi, vải tám, được mua ở
Đơn Sa, Thuận Bài, Trung Thôn, vải màu trắng được nhuộm
nước củ nâu, phơi nắng nhiều thành màu nâu bầm hay nâu non. Độ màu đậm nhạt tùy
theo số lượng lần nhuộm nhiều hay ít.
Khi có ngày lễ quan trọng, các bậc chức sắc, trưởng lão,
tiên chỉ làng thường mặc áo dài khăn đóng, chị em thanh nữ khá giả, chị em bán
hàng xén mặc có phần diện hơn (đầu bịt khăn nhiễu hoặc nhung, xếp thành nếp
nhỏ, ngực đeo yếm lụa màu, lưng thắt dải lụa, bên trong áo khách, bên ngoài áo
dài, màu sắc tương phản không trùng màu). Đặc biệt, phụ nữ Cảnh Dương lúc bâ'y
giờ khi đi ra đường không ai mặc áo khách, họ đều mặc áo dài nhưng lại không
gài cúc áo, nếu gài cúc áo dài thì chiếc yếm đào và chiếc áo khách duyên dáng
sẽ bị che lâp không tôn lên được vẻ đẹp của họ, yếm chéo trên cổ kiềng dây
thắt, phần thân có dây choàng lưng, đáy yếm xéo nhọn dài quá lưng quần che rốn.
Quần vải màu đen trở thành thông dụng đối với phụ nữ, áo
dài được nhuộm nâu cũng là sở thích của người lao động, buôn bán. Những người
sang hơn, có sở thích ăn diện như thanh niên, chị em bán hàng xén, học sinh
chuyên dùng vải "quyến dơ xăng", thường gọi là láng 200 và láng đen
"chữ hảo" để may quần áo dài và áo bà ba (áo ngắn, áo khách).
SỐ người mặc âu phục trước Cách mạng Tháng Tám 1945 rất
ít. Giáo viên, công chức cũng chỉ mặc áo dài đen bằng vải lương hay xa tanh,
quần vải quyến, tóc rẽ, mũ bê-rê hay mũ cối, đi guốc, hãn hữu mới đi giày da
hoặc xăng đan.
Ở Cảnh Dương, nhà ở cũng có nhiều loại khác nhau:
Loại nhà ngói kiểu cổ, nhà làm theo kiểu ba gian hai
chái, tiền khách hậu chủ, thượng nao hạ táu, mỗi vài có bốn đền năm hàng cột,
có bốn hàng cù nối ra mặt hiên được chạm ữổ công phu. Bao quanh nhà là các bức
tường đá, san hô, hai bên tả hữu có cửa sổ nhỏ. Nhà mái lợp bằng ngói mâu, đến
thập niên 1940 của thế kỷ XX mới dùng ngói "hưng ký". Loại nhà này
cũng chỉ chiếm 1/3 số nhà trong làng, thuộc những gia đình quyền quý, giàu có.
Loại nhà gỗ mái tranh có kết câu gần giống loại nhà ngói,
chỉ khác ở chỗ đòn tay, rui mè bằng tre, mái lợp tranh, còn cột kèo bằng gỗ.
Một mái nhà tranh lợp tốt, đúng kỹ thuật có thể sử dụng được 10 - 15 năm mói
phải sửa chữa lại. Trước mặt tiền nơi nước mưa đổ xuống có hệ thống ba hoặc năm
tấm rèm thanh nhã, để rèm thẳng đứng che mưa, gió. Tường vách bằng đá san hô
hay ữe đan, ván ghép tùy theo kinh tế của gia đình.
Loại nhà này chiếm khoảng 1/3 số nhà trong làng, chủ nhân
là gia đình ữung lưu, các nhà nho, hương lý, chủ thuyền nhỏ.
Loại nhà ữanh vách nứa cũng chiếm 1/3 số nhà trong làng,
câu tạo đơn sơ bằng tranh, tre, mây, lạt.
Hầu hết các nhà đều có sân và tường bao quanh nhà bằng đá
san hô - nguyên liệu chủ yêu ữong xây dựng, đá san hô cũng là nguyên liệu để
nung vôi.
Người Cảnh Dương từ Nghệ An vào định cư lập nghiệp ờ Lòi
Mắm (thuộc làng Di Phúc - nay là làng Di Lộc, xã Quảng Tùng), mang theo cả vốn
liếng văn hóa của một vùng quê nghìn năm lịch sử. Hơn nữa, đó là chiếc cầu nối
tiếp nhận, giao thoa văn hóa đàng trong và đàng ngoài trong thế kỷ XVII.
Theo dòng chảy của thòi gian, từ công việc làm ăn, từ
ngày lập làng, dựng đất vói các sinh hoạt cộng đổng làng xã, gia đình, người
dân Cảnh Dương đã gây dựng cho mình nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa - văn
nghệ dân gian mới, đậm đà sắc thái một địa phương miền biển.
Kho tàng văn học dân gian của Cảnh Dương có nhiều thể
loại khác nhau như tục ngữ, câu đối, ca dao, hò vè, truyện kể. Trò chơi dân
gian truyền thông có boi ữải, đánh cờ người, nâu cơm thi, cơm cần, kéo co, chạy
thẻ cưóp cờ, bịt mắt bắt dê, chọi gà, ném vòng cổ chai, ném đầu vịt,...
Ngày nay, phương thức tổ chức những sinh hoạt văn hóa dân
gian, trò choi dân gian không còn quy mô với nhiều loại hình như trước, nhưng
những câu hò, điệu hát, lòi ru, truyện kể, những trò chơi cổ truyền trong lễ
hội của làng theo năm tháng vân còn sức hấp dẫn, đã thâm đâm trong tâm khảm,
hóa thành tình yêu quê hương, đất nước từ ông cha cho đến thế hệ con cháu Cảnh
Dương ngày nay.
Chèo cạn - hò chèo cạn (hay hò Đức Ông) thường gắn với lễ
hội cá Ông voi, cầu ngư, hình thức làn điệu thường giống nhau, chỉ khác nhau về
nội dung lời ca.
Chèo cạn là chèo trên bờ, bao giờ cũng có con thuyên
tượng trưng. Thuyên dựng bằng tre, cót, giây bổi và được tô vẽ như một con
thuyền thật. Dưới con thuyên được bố trí một bộ phận để có thể di động được.
Văn hóa diên xướng dân gian của Cảnh Dương xưa có phường
chèo cạn, họ là những người lao động, có chút ít năng khiếu văn nghệ, giọng hát
tốt, đội hình gồm từ 8-12 người, do một người cầm trịch đổng thời là người lĩnh
xướng lão luyện vê các làn điệu, có năng khiếu sáng tác, ứng khẩu linh hoạt.
Khi diễn xướng sử dụng ba làn điệu: hò khoan, hò hụi, hò
ý giao; diên xướng theo động tác lao động chèo thuyên, tay đưa chèo chân nhún
nhẩy theo nhịp hò, tạo nên tiết tấu dồn dập, manh mẽ, khỏe khoắn. Điệu hò mang
nhip thở của người kéo lưói, cùng lòi xướng của người hò cái và giọng "xô
con" của nhiều ngưòi ngân vang làm cho không khí ngày hội thêm náo nhiệt.
Chính trong những lần diên xướng như vậy, nhân dân Cảnh Duong đã sáng tạo ra
được nhiều làn điệu dân gian phong phú.
Chèo cạn Cảnh Dương là một lễ hội dân gian độc đáo của
vùng biển miền Trung. Ngày nay, lê hội chèo cạn có phần mai một, nhưng các làn
điệu dân ca và phương thức trình diên của chèo cạn vẫn được nhân dân Cảnh Dương
yêu thích. Đội chèo cạn xã Cảnh Dương vân hoạt động, đã từng đi biểu diễn nhiều
noi, được Sở Văn hóa - Thông tin Bình - Trị - Thiên cấp bằng khen trong hội
diễn văn nghệ dân gian truyền thống năm 1989.
Ớ Cảnh Dương cũng có hò ru con theo thể thơ lục bát,
nhưng khác với hò ru con của nhiều làng quê khác ở Bình - Trị - Thiên về tiết
tấu và tiếng động, sử dụng các cụm từ "hò hẻ, hò he", "bổng
bổng, bổng bông" làm tiếng đệm mở đầu và kết thúc một câu hò. Hò ru con ở
Cảnh Dương không ngân dài, nhịp điệu của nó đều đặn nhưng nhanh hơn, bổng bềnh
hơn, tựa như cánh võng trưa hè .
Qua câu hò, lời ru ta thây đuợc sự thông minh trong bát
vận, đổi ý, các ý tứ gửi gắm trong câu hò, nét dịu dàng trong lời ru điệu hát.
Nội dung chủ yêu vân là đề cao trung hiểu, hết, nghĩa; đề cao cái thiện, căm
ghét cái ác; đề cao nghĩa cử hào hiệp, khinh ghét kẻ hẹp hòi, ích kỷ; đề cao
lòng nhân ái khoan dung, ghét kẻ bất nhân, bất nghĩa, bội bạc, vong ân, vong
tình.
Những sinh hoạt dân gian cùng đạo lý sông đẹp, sông cao
thượng đã dần vun đắp nên phẩm chất con người Cảnh Dưong. Từ Cách mạng Tháng
Tám đến nay, xã Cảnh Dưong đã có những người con, những cán bộ, lãnh đạo đóng
góp công sức, trí tuệ góp phần xây dựng, phát triển đất nước, quê hưong.
Với những gì có được hôm nay về dân trí, nhân lực được
đào tạo ngày càng cao, nhân tài đang được bổi đắp, Cảnh Dưong đã có thêm nguồn
lực mới để vững tin bước vào thời kỳ mới.
cửa biên Cảnh Dương là căn cứ thủy quân và quân Trịnh.
Làng mạc, quân doanh đan xen quân binh, dân làng hòa mục đã góp phần hình thành
cốt cách con người ở một vùng quê ven biển có khí phách hiên ngang, chính trực
của võ nghiệp; lại có tính cách lịch lãm, thông minh, nền nếp gia phong trong
thuận ngoài hòa, có lối ứng xử lễ phép kính trên, nhường dưới và có truyền
thống hiếu học. Nhiều người con của vùng đất này đã trưởng thành và đỗ đạt
thành tài.
Tiến sĩ Phạm Chan - hiệu Tô Trai, xóm Thượng Tự (xóm
Chùa), năm 25 tuổi đã đô đệ tam giáp đổng tiến sĩ xuẩt thân. Khi thực dân Pháp
xâm lâín Nam Bộ, ông trân thủ đồn Vĩnh Long, Gia Định. Ngày 25-2-1860, đồn Chí Hòa
thất thủ, Nguyễn Tri Phương
bị thương, tán lý Nguyễn Duy tử trận, án sát Phạm Chân tuẫn tiết, vốn là võ
quan nghĩa cử tiết liệt, văn nhân khẳng khái, chính trực, ông là người mở đại
khoa cho làng, tên tuổi được các nhà khoa bảng ghi công đầu để các thế hệ sĩ tử
trong làng noi theo.
Bài viết và biên soạn lại
0 comments:
Post a Comment