Giới thiệu xã Cảnh Dương (Phần 7) - Phong tục tập quán
Phong tục tập quán
1. Phong tục lễ tết
Những phong tục tập quán tế lễ, hội hè, cưới hỏi, ma chay
ở làng Cảnh Dưong vôh có từ lâu đời. Làng có truyền thông sinh hoạt ăn ở nền
nếp. Thôn, xóm dân cư đông đúc nhưng nhà cửa, lối xóm, đường thôn được xây dựng
quy củ, sạch sẽ, tạo đường nét văn minh từ ngày lập làng và phát triển đền ngày
nay.
Đời sông văn hóa các xóm, thôn của xã Cảnh Dưong rất
phong phú, đa dạng và mang đậm bản sắc của một vùng quê. Phong tục tập quán thờ
cúng, tế lễ, hội hè, ma chay, cưới xin, cách ứng xử, giao tiếp và nhiều nét đẹp
khác đã tác động sâu sắc tới đời sống tinh thần của mỗi người dân Cảnh Dương
cho dù họ sinh sống ở đâu. Tế lễ là một tín ngưỡng thờ thần linh mang tính cộng
đổng, nhằm bày tỏ lòng tri ân và cầu mong điều tốt lành trong cuộc sống.
Một năm có nhiều lễ tiết, nhưng Tết Nguyên đán đầu năm
giữ vị ữí quan trọng nhâ't, sau đó là các lễ tiết khác như Thượng nguyên (15
tháng Giêng), Đoan Ngọ (5 tháng 5), Trung nguyên (15 tháng 7), Hạ nguyên (15
tháng 10).
Trong ba ngày Tết Nguyên đán lại có những lễ có vị trí và
ý nghĩa khác nhau:
Lễ thượng nêu vào ngày 30 tháng Chạp, ngày cuối cùng của năm
âm lịch và hạ nêu ngày 7 tháng Giêng (ngày nay đon giản chỉ thường từ ngày 30
tháng Chạp đên mồng 3 tháng Giêng).
Lì tất niên vào chiều 30 Tết, là buổi tụ họp gia đình sau
một năm cần cù lao động, những người đi làm ăn xa cũng về trước lễ trừ tịch để
chung vui cùng gia đình mình.
Trong những ngày Tết đầu năm, mọi người đều tự nhận thức
được ý nghĩa sâu xa: "Hội tụ đoàn viên, gắn bó tình cảm họ tộc, cộng đổng
làng xóm, ngày lành tháng tốt, xóa bỏ đi những giận hờn, cãi vã và hiềm
khích". Đó chính là sợi chỉ đỏ về ý nghĩa nhân văn đạo đức của ngày Tết.
Đêm 30 Tết, ở các đình chùa, miêu tự đều có lễ dâng hương
thành kính. Đình Thành Hoàng, đình Tổ là nơi tổ chức các lê, quy tụ các tầng
lớp dân cư đền tưởng niệm, lạy bái thần linh.
Lỗ giao thừa vào lúc 12 giờ đêm ngày 30 Tết là thời diêm
quan ữọng, thiêng liêng giao giữa năm cũ và năm mới.
Làng Cảnh Dương có tục đốt lửa trong lễ giao thừa tại
đình làng. Sau khi tiến hành lễ giao thừa, ông Chánh lễ trân trọng cầm ngọn
đuốc châm từ chính điện đi ra sân đình đốt vào đống củi to, ngọn lửa cháy thành
đống than hồng đỏ rực. Đây là lửa của thần linh, của giang sơn nên mọi người
dân Cảnh Dương đều được đưa ngọn lửa thần về nhen lại trong bếp gia đình để giữ
ữuyền thông và may mắn trong năm. Do đó, dân làng rất thành kính coi trọng lê
giao thừa, từ các ngả đường, người lớn, trẻ em cùng nhau ra đình làm lê và lấy
lửa hổng về cho bếp nâu nhà mình, ngọn lửa thiêng liên tục được nhóm lên trong
ba ngày Tết cho đến lê đốt vàng đưa ông bà về cõi cực lạc. Cảnh Dương còn giữ lê
Nguyên đán, được tiến hành vào lúc rạng đông ngày 1 tháng Giêng. Thời điểm từ
lễ giao thừa đến lễ Nguyên đán, các gia đình đều thắp hương cúng vái những nơi
có thờ tự từ bàn thờ tổ tiên, bếp, thiên đài, cửa ngõ, tàu thuyền, phương tiện
sản xuât theo quan niệm "Đất có thổ công, sông có hà bá".
Lễ châm đạc (động mõ) vào ngày mồng 3 Tết. Đây là ngày
trọng thể được dân làng quan tâm, cũng là ngày phần đông các gia đình cúng
"đốt vàng" để đưa tiễn ông bà sau những ngày ăn Tết cùng con cháu.
Sáng tinh mơ, từ ữong nội đình ra đến tận các sân thượng
hạ, các loại đổ thờ, bát bửu, cờ thẻ, lọng tán được ữang trí nghiêm trang, lộng
lẫy. Từng nhịp trống tam thất hòa cùng mã não, trống lớn thôi thúc mọi người nô
nức tham gia.
Lỗ gồm hai phần: rước thần về đàn động mõ, lễ động mõ và
rước thần trở lại đình.
Ban hành lễ gồm hai bộ phận: văn và võ; văn chuyên lo
việc tế lê, võ chuyên lo việc rước sách. Bộ phận quan viên bản văn gồm chánh
lê, bổi tê' xướng lễ, tín hiệu và các quan viên phục dâng hương, dâng rượu. Bộ
phận quan viên bên võ gồm đại hiệu, người chỉ huy buổi rước, các vị phụ tá kim
thanh, tiểu cổ, các quan viên cầm thẻ bài, cờ lệnh, đội bài ban do hai tiền hô
điều khiên và một số tráng đinh phục dịch việc cắm cờ, lọng tán, gánh kiệu
rước.
Toàn bộ quan viên chức sắc, nho sinh, xã nhiêu, nộp dịch
trực tiếp phục vụ buổi lễ là gần 100 người. Tất cả đều mặc trang phục nghiêm
chỉnh, theo đúng quy định lễ phục.
Rước động mõ có hai kiệu, kiệu chính nhỏ, được chạm trổ
tinh vi, kết cấu đầu rồng, đuôi phượng, được đặt một chiếc bổ hương lớn có cắm
một chiếc tàn nhỏ xinh để che bổ hương. Chiếc bổ hương được thắp một cây hương
to, với đường kính 3 cm, dài 60 cm, thắp cháy từ 1 - 2 ngày mới tàn. Buổi rước
chính là chiếc bổ hương đặt trên kiệu, đây là chiếc bổ hương tượng trưng cho cộng
đổng thần linh và được tôn sùng là linh thiêng nhẩt.
Đàn động mõ là một bãi cát sạch sẽ, được trang trí tôn
nghiêm giữa trời vói nhiều đẳng thư đặt bồ hương cộng đổng, cờ thẻ các bộ tam
ngũ sự, cờ xí, các đổ bát bửu trong khuôn viên đình Đụn. Từ đình Lớn đến đình
Đụn đi hơn 500 m, với nghi lễ rước trang nghiêm, thành khẩn, với thời gian rước
hơn một giờ, mới đặt bổ hương cộng đổng vào vị trí đàn; khi toàn bộ đội hình
văn đã ở tư thế sẵn sàng, ban hành lễ tiến hành lễ cáo yết trời đất gọn nhẹ với
một tuần hương, lễ châín đạt khởi hành, vị quan viên được làng cử làm nhiệm vụ
động mõ khoan thai tiến vào đăng đàn lạy tạ, nhận dùi mõ và tiến về vị trí đặt
mõ thực hiện động mõ. Vị quan viên được làng cử động mõ không những phải hiểu
lễ nghi mà phải bình tĩnh, chủ động, mới đánh mõ (đúng 100 tiếng) với khoảng
cách đều đặn cùng tiêng vang của âm thanh mõ làm lay động lòng người.
Từ lễ đốt lửa ở đình vào đêm giao thừa, từ tiêng động mõ
đầu năm mói, nhiều người dân của làng đã chiêm nghiệm, luận ra sự hưng thịnh, bình
yên của làng trong năm tói.
2. Lễ kỳ yên: sau lễ động mõ, các vạn, phường, các thuyền câu lưới,
chị em buôn bán chọn ngày xuất hành, lại một dịp pháo nổ, nhất là ở cửa lạch
khi các thuyên bắt đầu ra cửa lạch. Sau lễ Tết đầu năm mới, lê kỳ yên hay cầu yên
được tổ chức, đây là một hình thức tín ngưỡng tổn tại trong đời sống và tâm
thức của cộng đổng người Việt từ bao đòi. Le do làng chủ trì, có sự tham gia
của các gia đình với cô xôi, nải chuối theo lòng thành. Buổi lễ bắt đầu từ đình
Tổ và kết thúc tại bãi kỳ yên.
Ngày nay, ở nhiều làng quê, để cầu mong cho con dân đi
làm ăn tiên đổng, ngoài bãi, trên sông biển, noi núi rừng đều được thuận lợi,
may mắn, ngày mùng 7 hạ nêu cũng là ngày tiên hành lê khai hạ của làng.
Ở làng Cảnh Dương cũng có lễ cầu ngư, cầu mùa được tổ
chức thường niên vào ngày rằm tháng Giêng.
Lê tế tổ tiên ở làng Cảnh Dương được tiến hành trang
nghiêm. Trong buổi lễ, sau phần dâng hương, dâng rượu, nội dung quan trọng là
đọc bản chúc văn để thỉnh mời chư vị tổ tiền khai khẩn, đổng khẩn và những
người có công đủ điều kiện được làng thờ phụng (người xưa thường đọc lại hương
ước của làng để nhắc nhở mọi người ghi nhớ).
Vật phẩm lễ gồm cỗ xôi, con gà, thịt lợn của làng, còn
các gia đình thì chuẩn bị cỗ xôi, con gà. Sau lễ, ban ngũ huơng, hội đổng hào
mục, hội tu văn họp đê hoạch định việc làng cho năm sau.
Ở Cảnh Duơng còn có lễ hội mùa xuân, lễ hội này vân được
lưu giữ lại trong một bộ phận dân cư. Phần lễ chỉ mang tính tưởng niệm, biểu
thị lòng tôn kính với thần linh và cầu mong được phù hộ, ban phước lành, đó là
mong muốn của cả cộng đổng nên do cộng đồng chủ trì tổ chức. Thông thường hằng
năm chỉ có rước cô gà, cô chén và tế thần trong ba ngày đêm, tập trung vào
chiều và tối.
3. Lễ tế ngưu: vật phẩm tế ngưu ngày xưa phải là trâu, sau này chuyển
sang bò. Buổi lê này cũng như buổi lễ tế tổ, phần quan trọng là đọc chúc văn,
bản chúc văn là lòi chúc tụng và danh sách thỉnh mời chư vị thần linh, các vị
khai khẩn, các vị quan có công vói làng được ghi rõ tên tuổi, chức vụ theo thứ
tự câp bậc, công lao. Tuy danh sách thỉnh mời nhiều nhưng tập trung vào hai
loại:
- Thần linh huyền thoại được xem như
thật vì có chức vị, có sắc phong của các triều vua, được phong loại thượng đẳng
thần, thuộc loại siêu nhân.
- Người của làng có công đức là các vị khai
khẩn đêh các danh nhân có công với làng, kể cả những người đóng góp tiền cho
làng thuộc hàng hậu thần, hậu tự.
Sau khi lễ xong, vật phẩm được phân chia để đi kính các
vị chức sắc từ tiên chỉ, thứ chỉ, đên các vị hào mục chức sắc theo vị trí phẩm
hàm. Số còn lại được chia đều thành từng phần cho tất cả mọi gia đình như lễ tế
tổ.
Buổi lễ tế ngưu mở màn cho hội làng. Sau đó lê hội diễn
ra ữong ba ngày đêm. Ngày nào cũng tiền hành hai lê rước cổ và một buổi tế
thần, từ 4 giò chiều đền 4 giờ sáng.
Rước cỗ gà, cỗ chén là rước cô để về cúng thần chứ không
phải rước thần. Đoàn rước sắp xếp đội hình cũng gần giống như rước động mõ.
Buổi rước được tiến hành theo nghi lễ, từ lúc rước cô từ nhà chủ về đình làng
theo đúng giờ quy định.
Rước chúc văn được tiến hành sau khi rước cô gà, cô chén
xong. Buổi rước chuyển về đêm được những ánh đèn tỏa sáng làm cho buổi rước
càng thêm uy nghiêm, trọng thể. Buổi rước là đưa bản chúc văn từ hội sở tư văn
về đình Lớn. Chúc văn cũng là bản thiếp chúc tụng lại mọi vị thần linh, các vị
tiền bối, người có công với làng nên càng tôn thêm sự cung kính, trọng thể. Khi
chúc văn được đặt đúng vị trí, toàn bộ văn, võ có trách nhiệm của các buổi rước
chuyển sang lễ tế thần.
Tế thần là một buổi chiêu đãi tượng trưng của dân làng
đối vói chư vị thần linh và tổ tiên tiền bối mà làng đã thờ tự. Tế thần là một
nghi thức tín ngưỡng và văn hóa dân gian thu hút các tầng lớp con em của làng
xã đến xem với tấm lòng trân trọng.
Cảnh Dương còn có một loại hình "ca đình sở, rước du
xuân" được tiền hành năm năm một lần, địa điểm tại đình Đụn. Buổi rước đưa
các vị thần linh từ nội đình ra quảng trường đúng theo các công đoạn như buổi
rước động mõ; chỉ khác về quy mô, đội hình gâp ba lần, với nhiều nghi thức bổ
sung như thị nam, thị nữ, đánh cờ ngưòi, nấu cơm và các trò vui khác. Ca đình
sở, rước du xuân cắm trại dã ngoại tại đình Đụn năm hoặc bảy ngày đêm và cùng
dân làng vui vẻ liên hoan du ngoạn. Mãn hạn mới ruóc các vị thần linh về đình
làng.
Từ tế lễ, hội hè, việc làng, việc xóm, việc thôn đền việc
họ, giô những bậc khai sinh dòng họ đên giô tổ hên, ông bà, cha mẹ, đuợc hên
hành tùy theo gia phong, không cần mâm cao cô đầy. Việc giô họ và giỗ ông bà,
cha mẹ vừa là đạo hiếu, bày tỏ lòng tri ân tiên tổ, cha mẹ, vừa là dịp để con
cháu tụ hội, giáo dục ý thức huyết thông dòng tộc, thêm gắn bó, yêu thuơng, đùm
bọc lẫn nhau.
Tang lễ:
Việc hiểu rất được nhân dân trong làng, xóm, thôn, họ tộc
quan tâm. Với ý thức "nghĩa tử là nghĩa tận", khi có người qua đời
thì trong họ tộc, trong thôn xóm, mọi người đều đến viếng thăm, chia buồn và
giúp đõ. Trưởng tộc làm lễ cáo yết tổ tiên, thông báo bà con trong họ tộc đến
lo tang đám với tang chủ.
Trong đám tang, có đội phục dịch đưa tang chuyên nghiệp,
khoảng 40 người hợp thành một phường, do một cụ làm phường trưởng. Trách nhiệm
chính của họ là khiêng nhà đưa, linh xa... đến mộ chí và trả lại nhà bảo quản.
Đội phục dịch được hưởng tiền thù lao của gia chủ theo nội quy quy định và tiền
thưởng của gia chủ tùy theo lòng hảo tâm. Những gia chủ nghèo, đội cúng lại một
số tiền hương khói, đó là lòng hảo tâm giúp đỡ nhau.
Các nghi thức nhập quan thành phục (chít khăn tang), phát
tang, hạ huyệt đã trở thành thông lệ phải tuân thủ. Người ta căn cứ vào tuổi
người mất, ngày giờ mâ't mà vận dụng để định giờ, ngày tiên hành những nghi
thức hên. Các cố lão mâ't, thì hàng chắt được chít khăn vải điều, vải vàng.
Đám đưa tang là trọng tâm của thời gian tang lễ. Le đưa
tang có nhà đưa để linh cữu người quá cố; linh xa để bài vị, bổ hương người
chết và lổng triệu ghi tên tuổi, quê quán của người chết. Ngoài ra, còn có
trung tín hay chinh thuận tùy đối tượng và bàn án, câu đối, bức trướng tùy theo
người quá cố và gia đình có mối quan hệ bạn bè, láng giềng rộng hay hẹp. Ông bá
lệnh đánh trống đại là người chủ trì điều khiển đám đưa tang với hai ông phụ tá
đánh kim thanh, tiểu cổ trực tiếp điều khiển nhịp đi, giữ thăng bằng cho quan
tài.
Ở Cảnh Dương, hầu hết các gia chủ đều tổ chức lễ 50 ngày,
100 ngày, nửa tang (một năm) và mãn tang (hai năm).
Theo tục lệ, những gia đình có đại tang phải tránh đến
những nơi lê hội, các cuộc hoan hỉ như cưới hỏi, lên cột nhà, đẩy thuyền,...
Trong gia đình thì tạm hoãn việc cưới, hỏi cho con cái, anh em.
Cưới hỏi:
Việc hôn nhân - cưới hỏi là việc rất quan trọng của đời
người, khi đến tuổi trưởng thành cũng là mối quan tâm lớn của các bậc cha mẹ.
Ở Cảnh Dương cũng như nhiều làng quê khác, trong thời
phong kiến, tục lệ mai mối, dạm hỏi, cưới xin đều phải tuân theo lệ "cha
mẹ đặt đâu con ngồi đây" và theo "môn đăng hộ đối", "nổi
tròn úp vung tròn, nổi méo úp vung méo". Tuổi tác, tướng người bị chi phối
khá nặng ữong việc lấy vợ, lấy chổng.
Việc hỏi, việc cưới ở Cảnh Dương được tổ chức qua nhiều
thủ tục, tập quán rất cẩn thận, vói những nghi thức: làm mối, đi dạm hỏi, đi
làm rể, đi làm dâu, lễ cưới. Mỗi nghi thức có cách tiến hành cùng lễ nghi, lễ
vật riêng.
Nhưng điều cơ bản nhất là sau khi bà mối qua vài lần thăm
dò, trò chuyện biết đã thuận tình thì chính thức đặt vân đề "kết tóc xe
tơ" cho đôi lứa trăm năm. Từ lễ hỏi đến khi đôi lứa nên vợ nên chồng, hai
gia đình làm theo phương châm "thương con ngon mọi việc" nên đều
"vun xới" cho đôi lứa thành vợ thành chồng. Việc hôn nhân ở Cảnh
Dương từ xưa đến nay không có lệ ăn uống linh đình, lãng phí tuy phải qua nhiều
lễ nghi. Khi nam nữ thanh niên đến tuổi đã lập gia đình, họ thường sống thuận
hòa, tự tạo lập cuộc sống hạnh phúc từ hai bàn tay gây dựng nên với sự hô trợ
động viên của cha mẹ đôi bên. Vì thế, trong làng, chuyện vợ chồng ly dị nhau
xảy ra râ't hãn hữu. Đó cũng là nét đẹp văn hóa gia đình mà người dân Cảnh
Dương vẫn lưu giữ được cho đến ngày nay.
Bài viết và biên soạn lại
0 comments:
Post a Comment