Giới thiệu xã Cảnh Dương (Phần 2) - Điều kiện xã hội
Điều kiện xã hội
Với một vị trí địa lý thuận lợi có đường thiên lý Bắc -
Nam, con sông Roòn nối liền miền ngược với miền xuôi, cửa biển thông ra biển
Đông, thuận lợi cho nghề chài lưới, đánh bắt cá, tôm... thuyền bè giao lưu buôn
bán, nên người Cảnh Dương từ Cồn Dưa qua Lòi Mắm khi đền định cư đã nhận
thấy đây là một vùng đất sinh lợi, có thể tiếp cận với biển cả để gắn bó lâu
dài với biển. Từ đó, người dân Cảnh Dương đã xác định con đường làm ăn sinh
sống với các nghề: chài lưói, vận tải biên, buôn bán hàng hóa,...
·
Nghề nghiệp chủ yếu: Nghề chài lưới là nghề cổ truyền của
làng Cảnh Dương, được gọi là "Đại nghề", bỏi lưới là loại ngư cụ có
sản lượng đánh bắt lớn, phạm vi hoạt động của lưới rộng, chủ động. Trong nghề
lưới gồm có lưới rê, lưới rùng, lưới trủ; lưới rê là nghề chính, được những vị
tiền khẩn và đổng khẩn mang theo từ quê cũ khi vào đây lập nghiệp và là nghề
chài lưới đầu tiên ở cửa biển lạch Roòn, ỏ Quảng Bình chỉ người Cảnh Dương mới
có nghề này. Nghề lưới rê có ữình độ tổ chức cao, quy ước chặt chẽ. Thuở trước,
lưới rê chỉ có lưới bả, lưới gai, ngày nay lưới rê phát triển thành nhiều loại:
rê khod, rê lộng, lưới ba, lưới tư, lưới cước, lưới ni lông; đánh cá nổi hoặc
đánh cá đáy. Cùng nhiều nghề cá mới có năng suât cao như: đánh cá bằng đèn ánh
sáng, lưới đánh tôm, lưới đánh mực, lưới vây; với ngư trường được mở rộng gồm
hàng trăm thuyền gắn máy, tàu xa bờ đánh bắt cá bôn mùa, đã thu hút số đông lao
động chính ở Cảnh Dương. Bằng nhiều phương tiện đánh bắt được cải tiến hiện
đại, tàu công suât lớn đi biển dài ngày, mỗi năm Cảnh Dương đánh bắt được hàng
nghìn tấn cá, tôm và nhiều đặc sản quý hiếm, làm giàu cho quê hương, đất nước.
Ngoài nghề lưới, ở Cảnh Dương còn có nghề câu, nghề này dụng cụ đơn giản, nhưng
về mặt kỹ thuật thì đòi hỏi cao hơn mới bắt được cá. Nghề câu có câu tay và câu
vàng, câu chằng (loại câu có nhiều lưỡi câu). Nhiều gia đình Cảnh Dương có nghề
câu "gia ữuyền" như: câu cá song, cá sủ, vạt ngứa, đom nhoài, chạy
rựa, câu mực, dong chổi. Nghề thả bóng là một nghề kỹ thuật, nhử tôm vào rọ để
bắt, gồm có "bóng hồng" (cá hổng) và "bóng tôm" (tôm hùm).
Hiện nay còn có bóng ốc hương, bóng mực lá. Nghề mành rút là nghề "thả
rạo" để nhử cá đến trú ẩn mà bắt, nghề này thường đánh cá vụ Nam. Ngoài
ra, các nghề đánh te, lặn ruốc, đi kheo cũng là những nghề truyền thống. Sau
năm 1995 có thêm nghề giả tôm cho hiệu quả kinh tế khá cao. Nghê' chế biên nuóc
mắm ỏ làng Cảnh Duơng cũng đuợc phát triển rất sớm và nổi tiếng vói hương vị
thơm ngon ở miền Trung. Nổi tiếng là danh hiệu nước mắm Hàm Hương, "nước
mắm ngự" công vua. Làng nghề nước mắm "Dân biết mặt, nước biết
tên" từ buổi ây1. Nước mắm Cảnh Dương đã có mặt từ Phú Xuân (Huê) đền Thăng Long (Hà Nội).
Trong những năm đầu thế kỷ XX đến Cách mạng Tháng Tám 1945 là thời kỳ phát đạt
của nghề chế biến nước mắm Cảnh Dương, mỗi năm sản xuất khoảng bốn triệu lít
nước mắm của hơn 40 nhà chế biên cỡ lớn và vừa . Với ngư trường có sản lượng
cao và có các cửa sông lạch trong vùng là sông Gianh, sông Dinh, sông Nhật Lệ,
sông Eo Áng ở Hà Tĩnh, Cảnh Dương có gần 100 hộ chuyên làm nghề chế biến nước
mắm, còn phần đông các hộ gia đình ở Cảnh Dương đều có một đêh hai vại nước mắm
gia dụng, khi thị trường đòi hỏi cũng pha chế làm hàng hóa đưa ra thị trường
trao đổi. Nghề chế biến nước mắm là nghề làm kỹ thuật và thuộc lao động nặng
nhọc "vào lò, ra chảo" phải qua nhiều công đoạn; con cá đánh bắt về
phải qua ướp muối, dang nắng, nâu, lọc, màu, câ't giữ. Mỗi công đoạn có bí
quyết kỹ thuật riêng mới tạo ra thành phẩm cuối cùng, đảm bảo chất lượng, màu
sắc hấp dẫn. Nghề chế biến, buôn bán nuớc mắm lớn cần phải có vốn lớn để mua
sắm nguyên liệu, phương tiện chế biến, cất giữ, chuyên chở. Đổng thời cũng đòi
hỏi có đầu óc kinh doanh, quản lý giỏi. Nghề chế biến, buôn bán hải sản, đặc
biệt là nghề chế biến nuớc mắm đã đưa lại nguồn lợi lớn, giúp người dân Cảnh
Dương tạo dựng cuộc sống trù phú, giàu có, thịnh vượng. Nhưng trong thời kỳ
thực hiện cơ chế tập trung vào các doanh nghiệp quốc doanh đã làm cho nghề
chế biến nuớc mắm Cảnh Dương có phần bị mai một. Từ ngày đất nước đổi mói vói
việc sản xuất, quản lý, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nghề chế biến
nước mắm của làng Cảnh Dương đã được nhiều gia đình phục hổi trở lại. Người dân
chài Cảnh Dương coi sông biên là đổng ruộng, nên "đường biển,/ là đặc
trưng riêng của cư dân nơi đây. Từ truyền thống "dẫn đường đạo lộ, vận
chuyển quân lương" mở ra thêm nghề vận tải thủy cho nhân dân làng biển
Cảnh Dương. Trên những con thuyền buồm dáng đóng chắc chắn, có thể chịu được
sóng to, gió lớn, thủy thủ Cảnh Dương có mặt khắp các biển, sông, rạch trong
Nam, ngoài Bắc. Từ vận tải nhỏ lẻ ở các sông, luồng lạch trong tỉnh, đến khi
yêu cầu vận tải trao đổi hàng hóa lớn tăng lên họ đã sáng lập ra vạn thuyền để
quản lý điều hành, hỗ trợ, bảo vệ lân nhau khi gặp sóng to, gió lớn. Vạn thuyền
ra đời là buớc khẳng định nghề hàng hải của làng Cảnh Dương đã trưởng thành,
vươn lên, biết buôn bán đem lại nguồn lợi, sự phồn vinh cho cuộc sông. Chính
truyền thông vận tải thủy của ông cha đã rèn luyện nên những thủy thủ tài ba
của Cảnh Dương, để cống hiến, đóng góp cho hai cuộc kháng chiến chông thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc đóng và sửa
chữa thuyền, ghe là không thể thiếu khi phát triển nghề câu lưới, chế biến,
buôn bán nước mắm và vận chuyên vì những nghề đó đều phải dựa vào thuyền, ghe
làm phương tiện đi lại, chuyên chở hàng hóa. Đóng và sửa chữa thuyền, ghe trở
thành nghề dịch vụ quan trọng. Ghe, thuyền làng biên Cảnh Dương phải đóng nhiều
loại, theo chức năng, kích cỡ, trọng tải khác nhau. Với công việc thường
xuyên, đại trùng tu ghe, thuyền định kỳ, đóng các loại thuyên như để đi câu, đi
lưới, xuồng và các loại công cụ cho các loại ghe, thuyền, nên người đóng ghe,
thuyền cần phải có sức khỏe, kỹ thuật, mẹo mực mới có những chiếc ghe, thuyền
có dáng vóc phù hợp, chịu đựng được sóng to, gió lớn.
Người Cảnh Dương buổi đầu lập nghề chỉ đóng được thuyền
nhỏ phục vụ cho nghề lưới câu. Muốn đóng thuyền lớn từ 30 tấn ữở lên phải mời
thợ Hoàng Lao từ Nghệ An về. Qua nhiều đời làm ăn, một số thợ đã định cư, xây
dựng gia đình và dần dần trở thành lực lượng đóng thuyền và truyền nghề cho con
cháu, bạn bè. Làng biển Cảnh Dương có thêm một nghề không những để một bộ phận
dân cư làm ăn, sinh sống mà còn nổi tiếng đóng góp những chiếc thuyên tràng đà
phục vụ vận tải lương thực cho đại quân Nguyễn Huệ và những chiếc ghe "sơn
đậu" chuyên dụng chuyên chở nước mắm, buôn bán hàng hóa ra Bắc vào Nam.
Những đoàn thuyền vận chuyển lương thực, vũ khí đã góp phần vào thắng lợi cho
hai cuộc kháng chiên chống Pháp và chống Mỹ, cũng như sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của quê hương, đất nước.
Nghề buôn bán của làng Cảnh Dương khỏi phát từ nghề chê
biên nước mắm, nghề vận tải thủy chở hàng vào Nam ra Bắc mà tạo thành. Phụ nữ
Cảnh Dương là đội quân chủ lực trong trao đổi, buôn bán, giao lưu hàng hóa ở
chợ Hôm của làng cũng như các chợ trong vùng Roòn. Họ là những người đòn gánh
đè vai, chắt chiu lưng vốn, tạo lập nghề sinh sông, từ hàng hóa thủy sản tươi
sống, chế biên của làng sản xuất, đền các loại hàng hóa nông sản, lâm sản của
bà con trong vùng được các chị em Cảnh Dương chịu khó đi các chợ trong huyện vừa bán, vừa mua về trao đổi. Do đó,
hàng hóa mua bán tại xã rất đa dạng, phong phú, dễ mua, dễ bán, kể cả các
loại hàng bách hóa, hàng xén, các hàng quý hiếm từ Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng,
Huế, có cả hàng từ Sài Gòn, Phú Quốc, Phan Thiết đưa ra.
Từ thập niên 1930, khi giao thông phát triển, một số chị
em lại đi buôn hàng chuyến bằng xe ô tô theo các tuyến: Hà Nội - Vinh - Huế -
Sài Gòn.
Do đặc điểm kinh tế, điều kiện giao thông thuận lợi, chợ
Cảnh Dương phát triển thành chợ trung tâm trao đổi, buôn bán hàng hóa của vùng
Roòn, một số xã vùng quốc lộ và vùng giáp Đèo Ngang huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh.
·Dân cư hành chính: Xã Cảnh Dương
là một xã có dân cư sống quây quần, đông đúc, đền năm 2000 có 7.744 người, với
1.798 hộ cư trú trong cộng đồng. Gồm chín thôn: Tân Cảnh, Cảnh Thượng, Liên
Trung, Trung Vũ, Yên Hải, Đông Cảng, Đông Dương, Đông Tỉnh, Thượng Giang. (Tính
đến thời điểm ngày 01/08/2017 có 10000 người, mật độ dân số đạt 5450 người/km²)
Bài viết và biên soạn lại
0 comments:
Post a Comment